Thứ Năm, 3 tháng 1, 2019

TẢN MẠN VỀ TRUNG QUÔC

Chưa bao giờ dân Việt lại ghét Tàu như bây giờ, ghét cay ghét đắng. 
Giống như ngày xưa, có thời ghét Pháp, ghét đến mức độ nếu có điều kiện thì quẳng luôn cái đất nước hình lục lăng này xuống Địa Trung Hải. 
Rồi lại ghét Mĩ. Những năm chiến tranh, tuần nào học sinh cũng phải đi mít tinh chống Mĩ. Có ông chủ tịch xã nọ, ghét Mĩ quá, bắt học sinh hô to 3 lần câu :..... mẹ đế quốc Mĩ ( trước chữ mẹ có chữ gì tôi quên mất) . 
Bọn Mĩ nghe thấy, sợ, chạy mất dép, vì trẻ con Việt Nam làm được điều kinh khủng, người lớn không làm được. 
Bây giờ ghét Tàu. Ghét khủng luôn. Đến mức độ này : rủ nhau đi đập phá các cơ sở kinh tế của nó ở Việt Nam, rồi tiện tay đập luôn mấy ông Hàn, Đài vốn chẳng liên quan gì đến Tàu. 
Rồi lại có anh xe ôm, biểu thị lòng yêu nước bằng cách đi biểu tình bằng xe máy, đến trụ sở người ta, nhìn thấy cái cây đun nước xinh xinh, cho luôn lên xe mang về mhà mình . Lúc công an hỏi, nói tôi bị nhầm. 
Xin thưa, đó không phải lòng yêu nước, mà là lũ phá hoại, côn đồ và trộm cắp. 
Vì sao dân Việt ghét Tàu đến thế? Vì nó cướp đất của mình. 
Từ xưa đến giờ, không có nước nào xấu với Việt Nam như Tàu, liên tục mấy ngàn năm nó xâm lược, lần đầu năm 206 T C N, lần cuối năm 1979, cách đây chẵn 40 năm. 
Vì thế dân Việt có lý do để ghét. Nhưng giận quá hoá không hay. 
Xưa nay, một nước lớn đi chiếm một nước nhỏ là chuyện bình thường. Nước Mĩ thành lập trên cơ sở sự diệt chủng của dân da trắng với dân da đỏ. Bản thân Mĩ cũng liên tục xâm lược. Năm 89, đưa quân vào Grenada, Panama, năm 2003 đưa quân vào Iracq, lật đổ Xat Đam, vu cho Xát Đam sản xuất vũ khí hạt nhân. Đến giờ, Mĩ vẫn chiếm giữ trái phép đảo Goantanama của Cuba, biến nơi này thành một nhà tù lớn của thế giới. 
Hay như Anh, đi xâm lược nhiều nhất, đến mức : mặt trời không lặn trên đất Anh. Đến giờ, Anh vẫn chiếm trái phép quần đảo Manvinat của Argentina. 
Hay như Nga, vẫn đang chiếm đảo Kurin của Nhật Bản. 
Rồi Nhật Bản chiếm trái phép mấy đảo của Hàn Quốc. 
Xem ra, chuyện Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam cũng nằm trong quy luật đó. Và nó đau nhức nhối trong tim dân Việt. 
Bây giờ hỏi có ai có kế gì giúp lấy lại Hoàng Sa? 
Kế gì thì kế, cũng chỉ có hai cách. 
Thứ nhất là dùng vũ lực. Cách này e không ổn, vì nó mạnh quá, đủ vũ khí hiện đại, cả hạt nhân, nếu xảy ra hạt nhân thì..... Ặc.... Ặc.... Tôi không dám nghĩ tiếp. 
Thứ hai là hoà bình. Vận động nó trả lại. Giống như xin con chó sói nhả con cừu non trong miệng ra khi nó đang đói. 
Có người bàn kiện nó ra toà quốc tế như Philippines đã làm. Rất hay. 
Câu chuyện của Phi kiện Tàu diễn ra như sau : 
Một ngày đẹp trời 
,Tổng thống Philippines ngồi trong phòng làm việc, có mấy quân sư quạt mo vào rỉ tai : Tàu nó cướp đảo của mình, mình đánh không được, nay kiện nó ra toà quốc tế Lahay. 
Tổng thống Philippines nghe bùi tai, đập bàn, quát : KIỆN. 
Rồi bầu đoàn thế tử Phi khăn gói quả mướp sang trời Âu kiện Tàu. Toà Lahay gọi cả nguyên cả bị đến, nhưng Tàu nó bảo nó không có thời gian vào việc trời ơi. 
Toà vẫn xử, cho Phi thắng, dân Phi sướng run người, mũi to bằng cái bánh rán, phen này ông quyết lấy đảo. 
Trở về, Phi cho mấy anh lính già, vác mấy khẩu súng Mĩ viện trợ từ thập kỷ 70 ra đảo, nhìn thấy lực lượng hùng hậu của Tàu, tất cả im thin thít như thịt nấu đông. 
Lúc ấy, hoa quả, nông sản của Phi chủ yếu bán sang Tàu. 
Tàu bất ngờ tuyên bố : kể từ nay, Trung Quốc không nhập hoa quả nông sản của Phi nữa, do không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nhiều thuốc trừ sâu quá, nguy hiểm. 
Nông dân Phi méo mặt, như bị rách. 
Phi bảo Tàu : anh cứ đùa. 
Tàu : đùa gì, mày mang sang Lahay mà bán. 
Phi thật thà, lại sang Âu gạ bán chuối. 
Mấy ông quan toà Lahay quát : mày điên à, ông mua chuối để làm mả bố ông à.. 
Năm 2016, hàng ngàn tấn chuối của Phi vứt bỏ vì không ai mua. 
Thời gian sau, Tàu hỏi : ngấm chưa? Phi than thở, dạ báo cáo anh em ngấm rồi. 
Tàu bảo, ngấm rồi thì ok, nhập khẩu trở lại. 
Kể từ đó, Phi quên luôn cuộc kiện cáo. 
Liệu có xảy ra chuyện tương tự ở Việt Nam không, khi mà hoa quả, gạo, cá basa của Việt Nam chủ yếu sang Tàu? 
Hay lại như mấy ông kinh tế gia hải ngoại suốt ngày ngồi tiên đoán kinh tế Trung Quốc sụp đổ trong mấy tháng tới? 
Khôn ngoan thì chung sống hoà bình với hổ dữ, lợi dụng nó để làm giàu, như Mehico và Canada lợi dụng Mĩ 
Ngu thì đối đầu, đập phá, rồi suốt ngày bị nó phá, như Cuba bên cạnh Mĩ. 
                                                                                                            PhucYen city: 03.01.2019.

Thứ Ba, 4 tháng 12, 2018

ANH QUỐC, MỘT THẾ GIỚ CŨ

Thế kỷ 5CN, bộ tộc Giecman tấn công dữ dội Đế quốc Roma. Bộ tộc Giecman có nhiều bộ lạc,mỗi bộ lạc chiếm một vùng của Roma lập ra một quốc gia phong kiến riêng. Bộ lạc Phơ răng chiếm xứ Golo,vùng này sau thành 3 nước là Pháp,Italia và Đức. Người Gốt chiếm xứ Vandarria sau thành Tây Ban Nha. Hai bộ lạc Angglo và Xacsong vượt eo biển Măng sơ ,tấn công đảo quốc sương mù,lập ra nước Anh phong kiến. Như vậy, tổ tiên người Anh hiện đại là người Angglo_ Xacsong. Hai bộ lạc này cùng với người Viking tạo ra một thứ ngôn ngữ hàm súc dùng chung cho cả thế giới,và là một điều kiện để tiếp cận với văn minh hiện đại,đó là tiếng Anh, ngôn ngữ của U.Sêchxpia, của Thaccore,của Đichken, Niuton, của Trump vĩ đại....
Người Angglo_ Xacsong còn tạo ra một nền văn hóa riêng biệt, văn hóa Angglo_ Xacsong, thống trị khu Bắc Mĩ và các thuộc địa Anh,không kém gì văn hóa latinh của Roma ,và có nhiều điểm độc đáo hơn
Thế kỷ 15,16 hai nươc Tây,Bồ bá chủ thế giới về đường biển.
Đến thế kỷ 17,Hà Lan và Anh nổi lên, dìm Tây, Bồ xuống.
Hà Lan được gọi là Người chở hàng trên biển.
Anh : những con sói biển,và nhanh chóng dìm Hà Lan chiếm ngôi đầu thế giới về hàng hải.
Anh luôn luôn đi trước châu Âu và thế giới. Bắt đầu là nền kinh tế thị trường tư bản. 
Kinh nghiệm của Anh,đất nước muốn phát triển,trong xã hội phải có một lớp người đi trước mở đường. Ở Anh thế kỷ 17 là quý tộc mới và tư sản. Hai tầng lớp này đã đuổi những người nông dân Anh ra khỏi ngôi nhà và mảnh vườn của họ, biến thành đồng cỏ nuôi cừu lấy lông dệt len dạ, đó là hiện tượng cừu ăn thịt người trong lịch sử Anh Quốc. Những con cừu ngoan ngoãn ngây thơ,nay đã trở lên hung dữ đên mức độ ăn sống nuốt tươi cả người.
Marx : tư bản ngay từ khi mới ra đời,máu và bùn nhơ đã đầm đìa ở mọi lỗ chân lông của nó.
Cuộc cách mạng Anh thế kỷ 17 làm thay đổi châu Âu,mở ra thời cận đại,dẫu trước đó có cách mạng Hà Lan.
Nếu cách mạng Mĩ để lại Tuyên ngôn độc lập 1776
Cách mạng Pháp để lại khẩu hiệu : tự do,bình đẳng,bác ái
Thì cách mạng Anh để lại nền quân chủ lập hiến,một cái áo may rất vừa khổ người của tư sản Anh thế kỷ 17. Mà cái chế độ đó nhiều nước đi theo. Ở Việt Nam, nhà chính trị nửa mùa Phạm Quỳnh cũng muốn áp dụng, nhưng không thành.
Và rất kỳ lạ,với cái áo đó,nền chính trị của Anh rất ổn định từ 1688 đến nay, không như Pháp , Mĩ có truyền thống cộng hòa,nhưng chính trị rất dễ đổ vỡ. Pháp liên tục biến đông( 1815,1848,1871), hay Mĩ (1861_1865).
Vì ổn định, nên Anh khởi đầu cách mạng công nghiệp,đưa nhân loại bước vào nền văn minh thứ hai, văn minh công nghiệp, thế kỷ của sắt,thép và động cơ hơi nước.
Giữa thế kỷ 19,Anh trở thành Công xưởng của thế giới( chỉ có 2 nước được gắn tên này là Anh và Trung Quốc hiện đại ) .
Năm 1851,lần đầu tiên Hội chợ quốc tế tổ chức ở Luân Đôn. Chỉ những nước nào kinh tế phát triển mới tổ chức đươvj sự kiện này.
Các nước khác ở châu Âu và bắc Mĩ còn đang lơ mơ.
Cứ theo đà đó, nước Anh làm keo thứ ba ngoạn mục : xâm lược thuộc địa.
Không phải đến thế kỷ 19, người Anh mới đi xâm lược. Từ các thế kỷ trước, họ đã đi khắp thế giới. Mĩ, Oxtraylia, Tân tây lan, Ấn Độ đều là thuộc địa của họ. Quá trình xâm lược diễn ra ác liệt từ giữa 19.
Một sự thật không tưởng xảy ra đầu thế kỷ 20 : một quốc gia diện tích hơn 500 ngàn km vuông, dân số vài chục triệu, đã quản lý một hệ thống thuộc địa 30,3 triệu km vuông với 400 triệu dân. Mặt trời không bao giờ lặn trên đất Anh.
Người Anh xuất khẩu cả sự văn minh và sự man rợ.
Văn minh, là làm nền kinh tế tư bản bao trùm thế giới, tiếngAnh trở thành ngôn ngữ quốc tế, nền dân chủ được mở rộng,văn minh tây phương áp đảo các chế độ độc tài dã man.
Man rợ, là sự bóc lột đến xương tủy các xứ thuộc địa, điển hình ở Ấn Độ, khi hàng dệt may của Anh vào xứ này, kinh tế cổ truyền Ấn Độ bị phá hủy, xương của những người thợ dệt phủ trắng khắp các cánh đồng Ấn Độ.
Năm 1859, những người lính xipay tham gia khởi nghĩa chốngAnh, bị đặt ngồi vào họng đại bác,sau đó bị bắn tung lên trời, tan xương nát thịt.
Dù Ấn Độ được mệnh danh là Viên kim cương trên mũ của Nữ hoàng Anh.
Đọc tác phẩm Sự thống trị của Anh ở Ấn Độ của Marx mới thấy hết cái man rợ của Đế chế Anh.
Nhưng, cái gì tạo nên sức mạnh Anh.? 
Đó chính là ý chí bất khuất của ngườiAnh. Họ không bao giờ biết đến chữ đầu hàng, khi dòng máu Angglo_ Xacsong chảy trong huyết quản của họ.
Một nhân vật lịch sử của Anh kết tinh tất cả cái ý chí đó, là Thủ Tướng Anh thế kỷ 20, W. Chuchill, người anh hùng chống Hitler trong đệ nhị thế chiến.
Mùa hè 1940, trong mưa bom bão đạn của Hitler dội xuống Luân Đôn, từ trong căn hầm thủ đô, vang lên câu nói của Chuchill: chúng ta chiến đấu trong đường phố, trong rừng rậm, trên đại dương...chúng ta nhất định thắng, NƯỚC ĐỨC HÃY ĐẦU HÀNG ĐI.
( Có cái gì giống như lời của Cụ Hồ đêm 19_12_1946) .
Và, không chỉ có thế, Anh còn mang nền văn hóa của mình ra khắp thế giới, với tiếng Anh ,một ngôn ngữ vĩ đại, không thể văn minh nếu không dùng tiếng Anh.
Hãy tưởng tượng : nếu người Trung Hoa bây giờ họ bỏ chữ tượng hình, dùng tiếng anh, thì khoa học và kỹ thuật của họ sẽ thế nào, mặc dù điều đó khó xảy ra. Và nếu điều đó xảy ra, thì việc họ đứng đầu và lãnh đạo thế giới là chuyện đương nhiên.
Ngay thời Văn nghệ Phục hưng thế kỷ 15, đại diện ưu tú nhất là nhà viết kich Sêchxpia đã dựng ra những tượng đài bất khuất.
Hamlet: điển hình cho thế hệ thanh niên thời trung đại, sống hay không sống
Romeo và juliet: thiên tình sử lấy đi nước mắt của hàng tỉ người trên hành tinh.
Otenlo : một tình yêu cực đoan, anh sẽ giết nếu em yêu kẻ khac, giết em đi để bảo vệ lấy tình yêu.
Tất cả được biểu thị bằng một ngôn ngữ trong sáng, hàm súc, mãnh liệt.
Có thể, ở thế kỷ 19,âm nhạc Anh không bằng Đức, Nga, Áo
Thơ Anh không bằng Pháp
Hội họa Anh không bằng Hà lan, Italia
Nhưng tiểu thuyết Anh vẫn đứng đầu thế giới, với các nhà văn vĩ đại như Dichken, Thaccore, chị em nhà Bronti.
Nếu ai đã đọc Hội chợ phù hoa, Đevit Côpfin, Jen ero thì sẽ phải công nhận điều tôi nói là đúng.
Tiếng Anh không chỉ thể hiện nghệ thuật, còn là ngôn ngữ khoa học. Niutown, Đac uyn, Hopkin đều viết các tác phẩm của mình bằng cái ngôn ngữ vĩ đại ấy.
Thời gian trôi đi. Thế giới biến động kinh người. Phong trào dân túy bùng nổ khắp trái đất. Các xứ thuộc địa của Anh tan hoang như sau cơn đại hồng thủy. Người Anh co về trên hòn đảo cô đơn ở Đại Tây Dương, dẫu rằng vẫn là một thành viên của Hội đồng bảo an.
Thật sự, họ đã là một thế giới cũ.
Anh giờ đây giống như con hổ già của Thế Lữ, ngồi buồn bã nhớ lại : 
Than ôi, thời oanh liệt còn đâu.........
                                                                                           Phúc Yên: 03. 12. 2018.

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2018

TRẦN KHOA ẢNH

HÀ NỘI: 18. 11. 2018.
                                                                           Phúc Yên 11. 2018.

Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2018

NƯỚC ĐỨC

Thế kỷ 2CN, bộ tộc Giecman bắt đầu đổ bộ xuống Đế Quốc Roma.Những người Giecman được Đế Quốc Roma gọi là những người man rợ , do họ có trình độ sản xuất còn trong thời cuối nguyên thủy, kém Roma về mọi mặt. Người Giecman có thân hình cao lớn, mắt xanh,tóc vàng,da trắng.Một nhóm chiếm khu vực phía tây Đế Quốc Roma,vùng này sau trở thành 3 nước phong kiến Tây Âu là Italia, Pháp và Đức.
Nhiều người cho rằng,thời trung đại Tây Âu không có ý nghĩa gì với châu Âu tư bản,đó là đêm trường trung cổ.Nhưng suy nghĩ kỹ hơn, ta thấy,đó là thời kỳ chuẩn bị cho những bước nhảy vọt sau này.Đặc biệt từ khi ra đời các thành thị trung đại vào thế kỷ 9CN.( Mác gọi thành thị là bông hoa rực rỡ nhất thời trung đại )
Lich sử Đức cũng thế. Suốt từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 15,Đức không có gì nổi bật. Đến thời kỳ Văn hóa Phục Hưng thế kỷ 15,tinh thần Đức bắt đầu có ảnh hưởng ở châu Âu.
Italia là quê hương của Văn hóa Phục Hưng với các tên tuổi như Leonacdo doVanhxi, Mikenlanggielo, Raphaen. Anh có đại diện ưu tú là nhà viết kịch vĩ đại U.Sêch xpia. Tây Ban Nha có Xecvantes với chàng Đonkihote bất tử, thì Đức đóng góp cho phong trào ấy bằng cuộc cải cách tôn giáo do M.Lutho thực hiện,với 1 ra đời của một tôn giáo mới gọi là Đạo Tin Lành.Từ đây, Thiên Chúa giáo chia thành 3 dòng chính: Kito giáo, Chính thống giáo và Tin Lành. Tin Lành là tiếng nói của tầng lớp thị dân muốn phản kháng lại tòa thánh Vatican,họ muốn quay trở lại với giáo lý Kito nguyên thủy,mang tin vui đến với mọi người,vì vậy M.Lutho đặt tên cho tôn giáo cải cách của mình là Tin Lành.
Thế kỷ 17,18 các cuộc cách mạng tư sản bùng nổ ở Hà Lan, Anh, Mĩ ,Pháp giống như những phát đại bác bắn phá tan tành các lãnh địa phong kiến,thì Đức vẫn bị chia thành 38 mảnh rời rạc,trong đó Phổ là mạnh nhất. Đến giữa thế kỷ 19, yêu cầu thống nhất nước Đức đặt ra cấp thiết. Và cái sự nghiệp vĩ đại đó được đặt trên đôi vai của vị Thủ Tướng sắt và máu _ Ốt tô phôn Bixmac.
Sinh ra trong gia đình quý tộc Phổ, thân hình cao lớn,tính tình bướng bỉnh,tanf nhẫn với nông dân,có đầu óc thực tiễn và kiên nhẫn, dùng mọi cách để đạt mục đích đã nhằm. Đó là chân dung của Ô.Bixmac.
Bằng một loạt các cuộc chiến tranh phản động như Phổ Áo, Phổ Đan Mạch, Pháp Phổ, cuối cùng nước Đức đã thống nhất năm 1871. Một nước Đức mới trẻ trung ,mạnh mẽ với một đội ngũ lãnh đạo mới thay thế cho một nước Đức cũ kỹ ,lạc hậu. Nước Đức mới là sự liên kết giữa một con hổ ( chỉ nước Phổ) với một tá cáo ,số còn lại là thỏ và chuột nhắt. Người ta gọi đó là quá trình Phổ hóa nước Đức.
Cuối thế kỷ 19,kinh tế Đức phát triển như vũ bão,cùng Mĩ và Nhật Bản. Đức nhảy lên đứng đầu châu Âu, thứ hai thế giới,sau Mĩ.
Khi kinh tế phát triển, đương nhiên Đức thèm khát thuộc địa.
Sự thèm khát của Đức giống như sự thèm khát của con chó sói lúc đói nhìn thấy con thỏ non.
Vì lúc đó, thuộc địa thế giới đã chia xong. Anh chiếm 1/4 địa cầu,Nga chiếm 1/6 ,Pháp cũng có trong tay gần 10 triệu km vuông. Đức hầu như không có gì.Mà phương Đông non tơ,giàu có và đẹp đẽ quá.
Đức như con hổ đói đến bàn ăn muộn, khi ấy các thức ăn trên bàn đã chia hết rồi.
Không còn cách nào, Đức phải gây chiến tranh ,công khai đòi chia lại thế giới.
Giai cấp quý tộc Đức kêu gọi : không gian sinh tồn cho dân tộc Đức siêu việt.
Thủ Tướng Đức Phôn Ruy Nốp đầu thế kỷ 20 tuyên bố : thời đại các dân tộc và các nước chia nhau lục địa và đại dương, còn người Đức chúng ta tự bằng lòng với mảnh trời xanh đã qua rồi. Chúng ta phải đòi địa vị của chúng ta dưới ánh mặt trời.
Đó chính là con đường đi đến hai cuộc chém giết kinh hoàng thế kỷ 20,mà Đức là thủ phạm.
Trong Đệ nhất thế chiến(1914_1918), Đức bị ép giữa hai đầu đông tây.Do Đức coi thường khả năng của Nga.Các kế hoạch quân sự của Đức bao giờ cũng phiêu lưu và chủ quan. Sức lực có hạn,nhưng khát vọng quá lớn. Kết quả !Đức thảm bại.
Đệ nhất thế chiến kết thúc, Đức mất hết thuộc địa và phải cắt 1/8 lãnh thổ cho các nước khác.
Một trật tự thế giới mới ra đời : Trật tự Vecsai_ Oasinhton,thế giới dưới sự lãnh đạo của 3 ông lớn : Mĩ,Anh, Pháp.
Người Đức không cam lòng. Nước Đức lấy lại địa vị của mình qua A.Hitler..
Từ một kẻ vô danh tiểu tốt trong Đệ nhất thế chiến, Hitler đã trở thành thủ lĩnh Đảng phát xít.Năm 1933,trở thành Thủ Tướng rồi Quốc Trưởng nước Đức,lập nền Đế chế thứ 3 trong lịch sử Đức,muốn xé bỏ Trật tự Vecsai_ Oasinhton,chia lại thế giới.
Đệ nhị thế chiến (1939_1945) bùng nổ.
Kế hoạch của Hitler cũng không khá hơn cuộc Đệ nhất thế chiến là bao,mặc dù Hitler rút kinh nghiệm bằng cách ký Hòa ước bất tương xâm với Liên Xô để tránh bị ép từ hai phía.
Hitler làm mưa làm gió châu Âu và thế giới mấy năm đầu. Có lúc chỉ cách Matxcowva hơn chục km. Nhưng lúc mạnh nhất cũng là lúc yếu nhất.
Cuộc phản công trước cửa ngõ Matxcova mùa đông 1941 báo hiệu sự thảm bại của Đức.
Thêm một nữa,kẻ gieo gió phải gặt bão. Nước Đức vỡ mộng bá chủ thế giới.
Sau chiến tranh, Đức bị cắt làm đôi: Tây Đức,đồng minh của Mĩ và Đông Đức,đồng minh của Liên Xô. Suốt thời kỳ chiến tranh lạnh,bức tường Beclin là biểu tượng sự chia cắt đông tây.
Đó là sự vô lý của lịch sử.
Cuối cùng,cuối những năm 80 thế kỷ trước,trong cơn lốc tan vỡ của Liên Xô và Đông Âu,hai nước Đức thống nhất trở lại ngày 3/10/1990. Đây là lần thống nhất thứ hai của Đức. Lần trước thống nhất bằng bạo lực. Lần sau thống nhất bằng hòa bình.
Một nước Đức mạnh mẽ nhất châu Âu xuất hiện,lãnh đạo EU cùng Anh và Pháp.
Nói đến Đức là nói đến trí tuệ dân tộc Đức. Đức là nước có trí tuệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ có người Do Thái mới sánh kịp.
Các thế kỷ trước, người Đức đã xây dựng cho mình nền văn hóa cao nhất châu Âu,về các mặt khoa học, tư tưởng, nghệ thuật,tôn giáo.
Đặc điểm trong tư duy người Đức là tư duy lý tính,cao nhất là trừu tượng hóa. Vì vậy,Đức có nhiều nhà triết học nổi danh thế giới.
Trong khuôn khổ bài này,giới thiệu hai con người vĩ đại của Đức thế kỷ 19 là Johan Phongang Goto và K. Marx.
Goto (1749_1832), nhà văn,nhà thơ,nhà khoa học nổi tiếng của Đức và nhân loại.Tìm hiểu các tác phẩm của ông sẽ thấy được sự độc đáo của trí tuệ Đức. Vì ông là một người Đức điển hình.
Nổi tiếng nhất là tác phẩm Fauxto( cuốn này đã được hai dịch giả Thế Lữ và Đỗ Ngoạn dịch sang tiếng Việt trước 1975).
Nhân vật trung tâm là Fauxto,một bác sĩ,một giáo sư danh tiếng.Chàng yêu cuộc sống và yêu tình yêu,và rất nhiều người yêu chàng. Nhưng một hôm, ngồi bên cửa sổ,Fauxtow giật mình khi thấy thời gian trôi đi nhanh quá,chàng muốn níu kéo lại
Thời gian ơi,người đẹp lắm đừng trôi
Và mãi mãi đừng bao giờ vùi lấp
Dấu vết ta để lại trên đời
Fauxto muốn quay lại tuổi trẻ,muốn từ bỏ lý luận xám ngắt để trở lại với cây đời mãi mãi xanh tươi
Nhưng làm sao Faoxto làm được điều đó?
Giữalucs đó, con quỷ Mephixtophen xuất hiện. Nó có thể đưa Fauxto trở lại thời tuổi trẻ,với điều kiện Fauxto phải bán trái tim cho nó. Trong cơn tuyệt vọng,Fauxto đồng ý. Chàng đã trở lại tuổu thanh xuân,nhưng không linh hồn. Chàng sống vô vị,không yêu,không ghét,một cuộc sống vô cùng buồn chán. Và Fauxto đã chết.
Đó là bi kịch của Fauxto,cũng là bi kịch thời đại.
Hàng trăm năm trôi qua,Goto vẫn quyến rũ nhân loai.
Người thứ hai đại diện ưu tú cho trí tuệ Đức,là K. Marx,nhà triết học,nhà kinh tế học,người sáng lập ra Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Pphats minh vĩ đại của Marx là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. Trên cơ sở kế thừa phép biện chứng của Hegel và chủ nghĩa duy vật của Phơ Bách. Khi nghiên cứu xã hội, Marx coi lịch sử loài người như một cơ thể sống,phát triển từ thấp đén cao. Và ông đã tìm ra được cấu trúc mô hình phát triển,đó là hình xoáy chôn ốc. Xã hội sau dường như lặp lại xã hội trước,nhưng ở dạng cao hơn. Và ông cho rằng ,động lực của sự phát triển là đấu tranh giai cấp. Ông đặt cược toàn bộ cuộc đời của mình vào giai cấp vô sản.
Marx giải phẫu nền kinh tế tư banr,viết bộ Tư Bản vĩ đại. Ông đưa ra luận điểm : nhà tư hản mua đúng giá trị,bán đúng giá trị,nhưng vẫn có lãi. Vậy cái lãi ấy ở đâu?
Ông đã tìm ra nguồn gốc của giá trị thặng dư. Đó là sức lao động của người công nhân bị nhà tư sản chiếm đoạt. Từ đó,ông định nghia tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư,bằng cách bóc lột sức lao động của công nhân.
Ông đặt lên đôi vai của giai cấp công nhân,những người cùng khổ của xã hội,một sứ mệnh cao cả: lật đổ chủ nghĩa tư bản,xây dựng CNXH.
Tư tưởng của ông còn nhiều tranh cãi,nhưng nó đã vẽ lại bản đồ thế giới thế kỷ 20.
Và Marx vẫn được coi là nhà khoa học xã hội vĩ đại nhất nhân loại,bên cạnh nhà khoa học tự nhiên vĩ đại nhất là a.Anhxtanh. Cả hai ông đều là người Đức gốc DO Thái. Trí tuệ Đức kết hợp với trí tuệ Do Thái mới tuyệt vời làm sao.Nhiều người chỉ biết Marx qua các cuốn sách khô khan,khó hiểu,nhưng không biết rằng,ông còn viết thơ,dẫu không nổi tiếng. Và đây là một bài thơ viết cho Gienni phôn Vetxphalen trong những đêm không ngủ khi hai người xa nhau:
HAI VÌ SAO
Hai vì sao xa cách hai phương trời
Hai vì sao mãi mãi chói ngời
Hai vì sao da diết gọi về nhau
Hai vì sao mãi mãi cách xa nhau
Gienni,Giennj em ơi có thể
Gọi thành tên trong đó mỗi vì sao
Anh cir nói,nhưng không ngụ ý
Hai ngôi sao là hai đứa mình đâu
Bởi một lẽ anh và em mãi mãi
Như một thể ytreen trời gắn bó cùng nhau
Băng tới đó trái tim em chói lọi
Chỉ một tình anh,một khao khát,một niềm đau
                                                                                                        Phúc yên: 11. 11. 2018.

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2018

NƯỚC PHÁP

Ảnh Internet.

Tổ tiên người Pháp là bộ tộc Giecman. Bộ tộc Giecman cũng là tổ tiên của người Đức, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, các nước Tây Âu, Bắc Âu.... 
Thế kỷ 5 CN, người Giecman tấn công Đế Quốc Roma, đế quốc Roma sụp đổ, một nhóm chiếm xứ Golo, xứ này sau phát triển thành vương quốc Phrrăng, sau thành nước Pháp ngày nay. 
Tên chính là Fracais (tên một loại vũ khí lợi hại của người xứGolo), người Viết dịch qua âm Hán là Phú Lãng Sa, gọi tắt là Pháp. 
Pháp có trên dưới 1000 năm phong kiến. Lúc đó, đất nước rời rạc như những củ khoai tây, kiểu như cho vào bao tải thì thành một đống , đổ ra thì củ nào đi củ ấy( nói theo kiểu Mark) 
Thế kỷ 15, 16 hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha làm mưa làm gió thế giới, với các chuyến vượt biển của C.Colombos năm 1492, của Magienlan năm 1519, của Vasco do Gama, của B.Đianxo..... thì Pháp vẫn ngủ yên 
Rồi đến thế kỷ 17,18 khi Tây, Bồ bị Hà Lan và Anh vượt qua, Pháp vẫn ngủ triền miên. Lúc đó, Hà Lan được gọi là người chở hàng trên biển, và Anh được gọi là những con sói biển. Cả hai nước này kinh tế hàng hải rất phát triển. 
Dường như Pháp đang âm thầm chuẩn bị. 
Ngày 14/7/1789. Pari vẫn trầm mặc bên sông Xen thơ mộng. Vua Lui 16 cùng các quần thần vẫn vui vẻ trong cung Vesai. 
Bất ngờ, hàng ngàn, hàng vạn người Pari cuồn cuộn nổi dậy, tấn cộng ngục Basti _ tượng trưng xấu xa của chế độ chuyên chế. Vua Lui ngơ ngác : người ta làm gì? Bẩm, người ta làm cách mạng. Lui : cách mạng là gì? Cách mạng là... là.. những người dân nổi dậy đòi quyền sống, đòi bánh mì và hoa tươi, đòi lật đổ chuyên chế, xây dựng nền cộng hoà. 
Đó là cuộc cách mạng 1789 nổi tiếng trong lịch sử thế giới, cuộc cách mạng tư sản thứ tư, cũng là cuộc cách mạng vĩ đại nhất, triệt để nhất trong lịch sử loài người. 
Cách mạng 1789 để lại cho nhân loại : 
- Khẩu hiệu : tự do, bình đẳng, bác ái. 
_cơ cấu tam quyền phân lập, lưỡng viện Quốc Hội 
- Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 
_ bản anh hùng ca bất tử, bản La Macxaye, sau trở thành bài Quốc ca hùng tráng của Cộng hoà Pháp. 
Từ 1794 đến nay, nước Pháp trải qua 5 nền cộng hoà, 2 chế độ độc tài của Napoleon đệ nhất và đệ tam, và một lần quay trở lại củaVương triều Buôc Bông. Hiện nay, Pháp đang ở nền cộng hoà thứ 5 do Saclo Đơ Gôn sáng lập năm 1958. 
Đến giữa thế kỷ 19, quốc gia này đã vươn lên trở thành một trong hai quốc gia tiên tiến nhất thế giới, dẫn dắt thế giới,với nền kinh tế thứ hai và hệ thống thuộc địa lớn thứ hai toàn cầu, sau Anh. 
Nhưng ảnh hưởng của Pháp đến thế giới không chỉ là kinh tế và quân sự, mà còn là sức mạnh mềm của nó _ nền văn hoá đặc sắc xứ Golo. 
Nếu thế kỷ 17,được gọi là Đại thế kỷ ở Pháp, với các tên tuổi như Đề Các, nhà toán học, nhà triết học, nổi tiếng với câu : tôi tư duy tức là tôi tồn tại, hay Paxcan, nhà tư tưởng lớn ( con người ta là cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ) , thì thế kỷ 18 được gọi là thế kỷ Triết học ánh sáng, với sự xuất hiện của những con người khổng lồ dẫn dắt cách mạng Pháp. Đó là Vonte, Mongtexkio, Đidơro, G.Ruxo. Mỗi một ý nghĩ của những con người đó có giá trị như một bước tiến bộ của lịch sử 
Nói đến Pháp, là người ta nói đến một nền văn học cổ điển vĩ đại thế kỷ 19. Thế kỷ 19, thế giới có 3 nền văn học lớn nhất : Anh, Pháp, Nga. 
Pháp là quê hương của 3 trường phái : lãng mạn, hiện thực và tự nhiên chủ nghĩa, với các đại diện ưu tú : Vitor Hugo ( lãng mạn) , Ban Dac, G.Phlobe, Xtangdan ( hiện thực), Emin Dola (tự nhiên). 
Trong 3 trường phái văn học đó, nổi tiếng hơn cả là chủ nghĩa lãng mạn do V.Hugo phát minh. Ông có cả một Tuyên ngôn trình bày những nguyên lý của chủ nghĩa lãng mạn. Những nhân vật phải đẹp từ tâm hồn đến cuộc sống, kể cả những nhân vật phản diện. V.Hugo có kiệt tác Những người khốn khổ, biểu hiện tập trung tư tưởng của ông. Lãng mạn đến từng chi tiết. 
Có hai cái chết trong Những người khốn khổ. 
Gavrot ngoài chiến luỹ. Những người cộng hoà hết đạn, cậu bé Gavrot bò ra chiến luỹ nhặt đạn, trong mưa đạn của bọn Bảo hoàng. Gavrot vừa nhặt đạn vửa hat : 
Ta làm chim non
Không làm thừa lại 
Sự này bởi tại 
Ông cụ Vonte..... 
Rồi một viên đạn bắn trúng cậu. Gavrot ngã gục. V.Hugo viết : cái linh hồn bé bỏng mà vĩ đại ấy đã bay đi. 
Phăngtin trong bệnh viện. Nàng đang thở những giây cuối cùng. Nhưng nàng chưa thể chết, vì Codet, con gái nàng vẫn ở xa,mà nàng chưa biết nó sẽ như thế nào. Lúc ấy, có một người đàn ông cúi xuống mặt nàng, nói câu gì không biết. Và Phăngtin đã ra đi, trước khi chết, V.Hugo còn nhìn thấy trên đôi môi của Phăngtin rạng rỡ một nụ cười. 
Phăngtin đã thanh thản ra đi vì cô biết, con gái cô đã có một thiên thần che chở. Thiên thần đó không ai khác ngoài Giang van Giang vĩ đại. 
Và một cái chết nữa của một người quái dị, thằng gù ở nhà thờ Đức Bà, Cadimodo. Có ba người yêu cô gái bohemieng Exmeranda là nhà thơ Grinchoa, phó giáo chủ Phrolo, thiếu tá Phe buyt, nhưng cuối cùng khi khai quật tầng hầm nhà thờ Đức Bà, người ta thấy xác của Cadimodo cuộn chặt lấy xác của Exmeranda, dù chưa bao giờ Cadimodo tỏ tình với Exmeranda. 
Cái lãng mạn của V.Hugo biểu hiện qua từng chi tiết như thế. 
Nói tới chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Pháp thế kỷ 19, không thể không nói tới 3 thi sĩ : Rimbau, Veclen và Lamartin. Ba nhà thơ vĩ đại này ảnh hưởng trực tiếp đến Ông hoàng thơ tình Việt Nam Xuân Diệu, góp phần đưa Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ tình nổi tiếng nhất thế giới. ( tôi nhớ Rimbau cùng Verlen / hai chàng thi sĩ choáng hơi men). 
Ảnh hưởng của văn hoá Pháp với Việt Nam rất lớn. 
Định mệnh gắn chặt số phận hai dân tộc này với nhau. 
Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858, hoàn thành năm 1884. Hơn 80 năm ở Việt Nam, người Pháp gây ra bao nỗi khổ đau cho người Việt. Người Việt không quên những nhà tù Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo, những vụ thảm sát đẫm máu trong phong trào Cần Vương cuối 19, hay những cuộc ném bom vào những người nông dân ở Nghệ An tháng 9/1930, hay nạn đói năm 45....
Nhưng, cái gì cũng có tính hai mặt. 
Sự giao lưu cưỡng bức của hai nền văn hoá đông tây tạo ra bộ mặt mới cho văn hoá Việt Nam. Khi tiếp xúc với văn hoá Pháp, người Việt mới vỡ ra rằng : tư duy của người Việt cũng không kém gì các nước phương Tây, chẳng qua bị Nho giáo kìm hãm hàng ngàn năm nên không phát triển được. 
Từ một xã hội cổ truyền chỉ có nông dân và địa chủ, nước ta đã có một xã hội cơ cấu 5 thành phần. 
Từ một nền kinh tế tiểu nông, nước ta đã có nền kinh tế tư bản, bước đầu hoà nhập. 
Từ những mái nhà tranh cổ truyền, nay đã có những thành thị,. Hà Nội là thành phố có điện đầu tiên ở châu Á. 
Từ một nền văn chương chỉ có lục bát, thơ Đường, nay đã có một nền văn học với đầy đủ các trường phái lãng mạn và hiện thực. 
Từ những làn điệu dân ca cổ truyền với lối xướng âm ngũ cung, nay đã có một nền tân nhạc hiện đại với những người đi tiên phong như Nguyễn Văn Tuyên, Đặng Thế Phong, Văn Cao..... 
Và xuất hiện các nhà khoa học Việt Nam nổi danh không chỉ trong nước. 
Một thời đại mới bắt đầu ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. 
Nước Pháp ngày nay vẫn năng động và trẻ trung. Không phải là nhà quý tộc già ngồi nhớ quá khứ hào hùng ngày xưa như nhiều người nghĩ. 
Một nước Pháp có vị Tổng Thống 40 tuổi đầy nhiệt huyết và tài năng. 
Một nước Pháp có Mpape cùng đội bóng đá vô địch thế giới. 
Vậy, còn tương lai nào xán lạn hơn nữa?
                                                                                                     Phúc Yên: 07. 11. 2018.

NHẬT BẢN

Từ xa xưa, người Nhật gọi tên nước là Yamato ( không hiểu nghĩa là gì)
Đến thế kỷ 6 CN, văn hoá Trung Quốc tràn vào Nhật Bản, nhiều người Trung Quốc sang Nhật Bản, họ cho rằng cứ đi thuyền theo hướng mặt trời mọc là đến Nhật Bản , vì Nhật ở phía đông so với Trung Quốc, vì thế người Trung Quốc gọi Nhật Bản là xứ mặt trời mọc. Chữ mặt trời mọc, đọc theo âm Quảng Đông là Japing. Người Nhật lấy luôn cái tên mặt trời mọc đặt tên cho nước mình. Chữ Japing đọc theo âm tiếng Nhật là Nippong, hay Nihong, dịch qua âm Hán là Nhật Bản, vẫn nghĩa là mặt trời mọc.
Năm 1541, người Bồ Đào Nha đến Nhật Bản, họ phiên âm chữ Japing ra tiếng Bồ là Japan, sau này người Anh và phương tây gọi Nhật Bản là Japan, đất nước mặt trời mọc.
Chế độ phong kiến Nhật Bản bắt đầu từ thế kỷ 3 CN. Khác với Trung Quốc và Việt Nam, từ khi chế độ phong kiến được xác lập đến giờ, ở Nhật Bản chỉ có một dòng họ làm Vua, đó là dòng họ Hirohito. Hiện nay, Hoàng Đế Nhật Bản vẫn là dòng Hirohito, và đó là vị Hoàng Đế thứ 125 của Nhật Bản, lên ngôi năm 1989.
Từ thế kỷ 12, ở Nhật Bản xuất hiện thêm một chính quyền mới bên cạnh chính quyền của Thiên Hoàng, gọi là chính quyền Mạc Phủ, hay chính quyền Tướng quân ( sogun). Đây là chính của các lãnh chúa và các samurai ( võ sĩ đạo) của Nhật Bản. Nó giống như thời vua Lê chúa Trịnh ở Việt Nam, hay giống như chế độ quân chủ lập hiến ở Anh từ cuối thế kỷ 17. Hoàng Đế Nhật chỉ nắm danh nghĩa, còn quyền lực thật sự nằm trong tay Tướng quân.
Lịch sử Nhật Bản có hai sự kiện quan trọng : 1868 và 1946.
Chế độ phong kiến Nhật Bản có nét gì giống Phương Tây, khi kinh tế vẫn là nông nghiệp, nhưng phát triển theo lối điền trang của các lãnh chúa. Và xuất hiện một tầng lớp đặc biệt trong xã hội Nhật Bản là samurai, võ sĩ đạo. Đầu tiên, họ chỉ là người bảo vệ điền trang của các lãnh chúa, sau trở thành một tầng lớp tinh hoa của Nhật, thực hiện cuộc duy tân của Minh Trị sau này.
Sau hơn 1000 năm, đến giữa thế kỷ 19, Nhật trở thành một nước lạc hậu giống như Đại Việt, Chế độ Mạc Phủ cũng thực hiện những chính sách như nhà Nguyễn : đóng cửa với nước ngoài, cấm đạo Thiên Chúa. Nhưng có một rất độc đáo xảy ra trên đất nước mặt trời mọc, đó là văn hoá phương Tây tràn ngập đất nước, nhất là văn hoá Hà Lan. Lúc đó có một ngành gọi là Lan học, sách của Hà Lan được dịch và in rất nhiều ở Nhật. Tầng lớp samurai, vừa giỏi võ nghệ, lại có tri thức, hiểu biết về văn hoá phương Tây, dường như đã chuẩn bị cho cuộc canh tân vĩ đại năm 1868.
Các nước phương Tây đến gõ cửa Nhật Bản giữa thế kỷ 19. Nhật không còn con đường nào khác là phải cải cách để đi lên.
Năm 1868, Minh Trị lên ngôi Hoàng Đế, ông tiêu diệt chế độ Mạc Phủ, thu hết quyền lực trong tay, và tiến hành cuộc Duy Tân nổi tiếng.
Khẩu hiệu của Minh Trị là : HỌC TẬP PHƯƠNG TÂY
ĐI CÙNG PHƯƠNG TÂY
VƯỢT LÊN PHƯƠNG TÂY
Năm 1868, Hoàng Đế Minh Trị chưa đầy 20 tuổi.
30 năm cuối thế kỷ 19, Nhật từ một nước phong kiến lạc hậu đã trở thành một nước tư bản phát triển, và từ một nước tư bản trở thành một nước đế quốc, ngang với các nước phương Tây.
Để có điều đó, các nước phương Tây phải mất vài trăm năm.
Việt Nam lúc đó tình trạng như Nhật Bản. Cũng có ý tưởng duy tân của Nguyễn Trường Tộ, nhưng không thực hiện được.
Nguyên do, Việt Nam không có một vị Hoàng Đế trẻ như Minh Trị với khát vọng mãnh liệt về tương lai dân tộc, mà chỉ có một ông vua Tự Đức già nua, hơn 70 tuổi, trong đầu tràn ngập Khổng Tử và thơ Đường.
Nguyên nhân nữa, lúc đó trong xã hội Việt Nam, không có tầng lớp trí thức đúng nghĩa. Chỉ có bọn hủ nho ăn hại. Trong kỳ thi đình năm 1871, Tự Đức ra một câu hỏi : Nhật Bản là nước đông phương, đã học theo các nước Thái Tây, nay đã trở lên hùng mạnh, vậy theo ý các ngươi ta có nên học theo Nhật Bản không? Thì nhất loạt các nho sĩ đều trả lời : Nhật học theo Tây, dẫu bây giờ hùng mạnh, nhưng sau này chắc chắn sẽ trở thành man ri mọi rợ.
Một tầng lớp tinh hoa như thế thì làm sao cất cánh được, và không mất nước mới là điều lạ.
Thế kỷ 20, Nhật cũng xưng hùng xưng bá bằng cách tham gia hai cuộc chiến tranh thế giới và thiết lập chế độ phát xít. Đó là cuộc phiêu lưu của giới quân nhân, vừa mang nặng tính phong kiến, vừa mang nặng tính tư bản. Một đất nước chế độ tư bản chồng lên chế độ phong kiến. Tuy nhiên, Nhật nhanh chóng thất bại. Và chỉ khi thất bại năm 1945, người Nhật mới đau đớn nhận ra : chiến tranh không phải là con đường đưa Nhật đến chỗ thịnh vượng.
Bước ngoặt thứ hai của lịch sử Nhật Bản là năm 1946, khi ban hành Hiến pháp mới, Nhật Bản từ một nước chuyên chế trở thành một nước dân chủ tư sản, và họ bắt đầu tiến vùn vụt về kính tế.
Từ đống tro tàn sau chiến tranh, Nhật vượt lên Tây Âu, bám sát Mĩ, và chỉ đến đầu thế kỷ 21 mới bị Trung Quốc vượt qua. Hàng hoá của Nhật Bản len lỏi khắp ngõ ngách thế giới trong những năm 70, 80 thế kỷ trước. Họ đúng là một Đế Quốc về kinh tế.
Nhật Bản có nét tương đồng và dị biệt với Việt Nam.
Nét tương đồng là đều chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc, nhưng cách tiếp thu khác nhau.
Chẳng hạn, cùng chữ Hán, người Việt tạo ra chữ Nôm, bằng cách thêm nhiều nét vào một chữ Hán để ghi âm tiếng Việt. Ví dụ từ chữ NGƯ (tiếng Hán, là cá) người Việt thêm nhiều nét mới vào thành một chữ Nôm và đọc luôn là CÁ .Như vậy, chữ Nôm là sự phức tạp thêm chữ Hán. Muốn biết chữ Nôm, trước hết phải biết chữ Hán.
Nhưng, từ chữ Hán, người Nhật sáng tạo ra một bộ chữ cái riêng, gọi là chữ Kana.,từ thế kỷ 6 đến nay vẫn dùng. Cho nên người Nhật bây giờ vẫn đọc được những gì ông cha họ viết cách đây hàng ngàn năm. Người Việt thì chịu, khi vào chùa đọc văn bia cổ xưa. Văn hoá truyền thống của Việt Nam bị đứt gãy. Văn hoá Nhật Bản vẫn liên tục.
Hay từ các môn nghệ thuật của Trung Quốc, người Nhật phát triển đến mức độ tinh tế như trà đạo, kịch Nô, cắm hoa, gấp giấy...
Hay từ đạo Nho, người Việt tổ chức thi cử như người Trung Quốc, còn người Nhật không bao giờ tổ chức thi cử, họ chỉ tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo để tạo ra sự nền nếp xã hội.
Tương lai, Nhật vẫn là một cường quốc kinh tế đáng nể, dù có nhiều cản trở. Một đất nước đáng kính trọng và nên lấy làm khuôn mẫu.
Giống như người Việt, người Nhật rất thích thơ ca. Họ có thể thơ tan ca nổi tiếng. Sau đây xin chép hầu quý vị mấy bài tan ca Nhật để hiểu thêm tâm hồn và con người Nhật Bản :
Bài 1
Sông Hô nô xê
Nước rất nông
Lội đến giữa dòng vẫn còn chưa ướt váy
Hỏi một người lòng cũng nông như vậy
Làm sao tôi có thể yêu sâu?
Bài 2
Ừ thì em nói
Không yêu anh
Nhưng hoa ti ti ban đẹp thế trên cành
Bên nhà anh
Lẽ nào em không đến ngắm?
Bài 3
Trời tối rồi
Đừng đi
Vì bây giơf trước ngõ
Lên những bụi cây vừa và nhỏ
Sương có thể rơi
Bài 4
Ngay cả tượng thánh
Đôi khi người ta cũng sờ tay ve vuôt
Thế mà em nói với anh
Đừng đụng vào ngực em
Có tội
                                                                                  LanChiPhucYenCity supermarket: 05. 11. 2018.

ẤN ĐỘ

Sông Ấn chính là cái nôi của nền văn minh Ấn Độ,mà dân bản địa gọi là sông Sindhu. Người Iran láng giềng phát âm là Hindu, nên gọi tên nước là xứ Hindu _ Hinduxtan. Người Hy Lạp gọi tên sông là Indus, và tên nước là India, dịch qua âm Hán gọi là Ấn Độ. Nhưng bản thân người Ấn Độ lại lấy tên một ông vua truyền thuyết thuỷ tổ để đặt tên chính thức cho nước mình - BHARAT. Vì thế qua sứ quán Ấn Độ, đừng ngạc nhiên khi thấy họ ghi Republic Bharat. 
Ấn Độ có lịch sử hơn 5000 năm. Chủ nhân đầu tiên là chủng tộc da đen Negrito trên lưu vực sông Ấn và sông Hằng (Ganna). Khoảng 3000 năm TCN, người Arien da trắng đổ bộ vào, tạo ra sự hỗn hợp, và văn minh Ấn bắt đầu. Đặc điểm nổi bật ban đầu là chế độ chủng tính Varna và sự chia cắt. 
Đạo Bà la môn ra đời vào TNK thứ nhất TCN, chia xã hội Ấn Độ thành 4 đẳng cấp : Bà la môn, Kcatrya, Vaicya, và Cudra. Trong đó đẳng cấp thứ 4, Cudra là tiện dân, và còn loại tiện dân của tiện dân, là loại Paria, loại này chuyên làm công việc gánh phân và thanh toán xác chết. Sau này, năm 1921, tại Pari, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ra một tờ báo lấy tên đẳng cấp này, gọi là tờ Le Paria ( Người cùng khổ). 
Sự chia cắt. Hãy tưởng tượng Ấn Độ như nhiều mảnh đất vỡ vụn, sau một thời gian, có mảnh đất lớn thống nhất các mảnh đất nhỏ, rồi lại vỡ vụn, rồi lại thống nhất, để đến hôm nay, từ một nước Ấn Độ cổ xưa đã biến thành nhiều quốc gia : Ấn Độ, Pakixtan, Băngladet, Butan.... Sự chia cắt đó có từ thời lập quốc, khi xuất hiện những thành thị bên lưu vực sông Ấn và sông Hằng, bên cạnh những công xã nông thôn rất lạc hậu. Một sợi dây liên kết các vùng Ấn Độ với nhau dưới triều đại Magada, đó là đạo Phật. Đạo Phật ra đời để phản kháng chế độ chủng tính Varna, điều hoà các giai cấp xã hội. Ngay trước CN, vua Asoka đã truyền bá Phật giáo khắp Ấn Độ thống nhất. Ông vua có hai bộ mặt tàn ác và nhân từ này có điểm gì giống với Lý Thường Kiệt của Việt Nam. Họ Lý, sau khi tàn sát hàng vạn người Tống ở thành Ung Châu mùa đông 1075, và hàng vạn người Champa năm 1070, cuối đời cho xây bao nhiêu ngôi chùa để sám hối. Asoka đã có công truyền bá Phật giáo khắp xứ Ấn, và đưa Ấn vào thời kỳ phong kiên,với 3 triều đại chính : Gupta, Hồi giáo Đeli, và Mogol. Trong đó, Gúp ta ( những thế kỷ đầu CN) có tính chất định hình phong kiến Ấn Độ, Hồi giáo Đê Li là sự giao thoa hai nền văn minh đông tây, và Ấn Độ Mogol là sự giao thoa cưỡng ép của một bộ tộc mạnh về quân sự nhưng yếu hơn về văn hoá với Ấn Độ, để cho đất nước vốn bị chia cắt này trở nên bạc nhược vào thế kỷ 18, và văn minh phương Tây tràn vào. 
Trong bối cảnh đó, người Ấn Độ thực sự làm chúng ta kinh ngạc với sự sáng tạo vĩ đại của họ. Đó là đất nước của triết học. Triết học Ấn Độ hoà quyện với tôn giáo, trong khi Triết học Trung Quốc nhuốm màu chính trị, Triết học Hy Lạp Roma hướng vào khoa học. Tôn giáo Ấn Độ có sự kế thừa liên tục qua 3 tôn giáo chính : Bà la môn, Ấn Độ giáo, Phật giáo. Đến thế kỷ 8 thêm một tôn giáo nữa ngoại lai là Hồi giáo, và bắt đầu cuộc chiến tranh khốc liệt giữa các tôn giáo, để cuối cùng đạo Phật bị biến mất ở chính nơi sinh ra nó. 
Người Ấn phát minh ra hệ chữ số 1,2,3....và cả số 0, nhưng người arap lại truyền bá sang phương Tây, và họ không cải chính khi người Phương Tây gọi đó là số arap. Cờ vua cũng của Ấn Độ, giá trị số Pi chính xác gần tuyệt đối (3,1416), họ giải phẫu cơ thể người đầu tiên trên thế giới, hay có thể viết ra bộ kinh Veda vĩ đại và 2 bản anh hùng ca có số câu dài nhất thế giới. Có điều đó, vì họ phát minh ra chữ Phạn ( sankrit) đạt tới trình độ nghệ thuật, vượt qua chữ tượng hình, thành chữ tượng thanh. 
Nếu Trung Quốc là một kẻ xâm lược, cướp đất, một đế quốc lớn nhất phương Đông, thì Ấn Độ cũng là một Đế Quốc, mặc dù quốc gia này chưa bao giờ đi xâm lược nước nào. Họ xâm lược bằng văn hoá. Văn hoá Ấn đi khắp châu Á và thế giới. Chữ Phạn, đạo Phật, triết học cổ xưa, toán học... 
của Ấn Độ đã góp phần xây dựng bao nhiêu nền văn minh, trong đó có cả Việt Nam. Phật giáo, ngôn ngữ, kiến trúc, hoa quả của Ấn Độ còn in dấu dày đặc ở Việt Nam. Ấn Độ thật sự là một Đế Quốc văn hoá. 
Ấn Độ suy yếu vào thế kỷ 17, 18. Văn minh phương Tây vào Ấn qua nước Anh. Nhưng Ấn Độ không mạnh lên như Hồng Kông hay Xinhgapo. Dù rằng thế kỷ 19,20 ở đất nước vĩ đại này vẫn cống hiến cho nhân loại những cá nhân lỗi lạc. Đó là vị thánh tuẫn tiết cho nền độc lập tự do của Ấn Độ _ Mahatma Găngdi, nhà thơ vĩ đại của những tâm hồn Ấn Độ, người châu Á đầu tiên đoạt Nobel văn học _ Tagor, nhà cách mạng không hề biết mệt mỏi _ G.Tilac, người kiến trúc sư của nước Ấn Độ mới _ G.Neru, người Hiệp sĩ của thời đại, bà mẹ anh hùng của nhân dân Ấn Độ _ Indira Gangdi. Những con người làm thay đổi cả đất nước Ấn Độ huyền thoại. 
Cái gì đang cản trở Ấn Độ hiện nay? Và tương lai của Ấn Độ? 
Đến Ấn Độ hôm nay, có quả nhiều sự đối lập. Ấn Độ có nhiều nhà khoa học tầm cỡ thế giới, bất cứ quốc gia nào cũng thèm muốn, bên cạnh một nửa dân số mù chữ. 
Ấn Độ có những thành phố hiện đại bậc nhất thế giới, bên cạnh những vùng nông thôn như công xã thời trung cổ. 
Ấn Độ có vệ tinh nhân tạo, có tàu vũ trụ, có bom hạt nhân, bên cạnh những dụng cụ thô sơ mà người nông dân ven sông Ấn, sông Hằng vẫn đang sử dụng. 
Vậy, Ấn Độ có tương lai như Trung Quốc không? 
Câu trả lời là không, mặc dù họ là quốc gia nói tiếng Anh. 
Vì sao vậy? 
Vì sự chia cắt đã ngấm vào máu. Ấn Độ bây giờ là nhiều quốc gia trong lòng một quốc gia. Mỗi bang lại có một chính sách riêng. Lại nữa, sự gia tăng dân số vượt quá mức tưởng tượng. Những yếu tố đó cản trở họ, ít nhất là trong thế kỷ này.
                                                                                              Phúc Yên: 01. 11. 2018.

TẢN MẠN VỀ TRUNG QUÔC

Chưa bao giờ dân Việt lại ghét Tàu như bây giờ, ghét cay ghét đắng.  Giống như ngày xưa, có thời ghét Pháp, ghét đến mức độ nếu có điều kiện...